Tổ tiên người Ê-đê sinh tụ ở miền Trung Tây Nguyên từ hàng nghìn năm trước. Ngày nay, họ có hơn 398.671 người (theo kết quả điều tra dân số năm 2019), cư trú chủ yếu ở tỉnh Đắk Lắk, một bộ phận ở miền tây hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hoà. Cộng đồng Ê-đê ở Việt Nam bao gồm nhiều nhóm địa phương: Kpạ, Bih, Mthur, Adham... Tiếng nói của họ thuộc ngữ hệ Nam Đảo.
Đa số người Ê-đê sống trên địa hình cao nguyên màu mỡ nên họ làm rẫy đa canh như cư dân vùng Trường Sơn - Tây Nguyên; điều đặc biệt ở đây là chiếc cuốc có vai trò quan trọng nổi bật hơn so với chiếc gậy chọc lỗ. Họ cũng canh tác theo lối hưu canh, mỗi đám rẫy có thể gieo trồng liên tục nhiều năm trước khi bỏ hoá. Ruộng nước đã xuất hiện từ lâu đời, chủ yếu ở vùng ven hai con sông Krông Ana và Krông Knô. Ngoài những vật nuôi thông thường, các gia đình giàu có còn nuôi voi. Trong đời sống cổ truyền, phụ nữ Ê-đê thành thạo dệt vải sợi bông để tự túc đồ vải cho gia đình như: khố, váy, áo, chăn, địu. Đàn ông giỏi đan lát, làm ra nhiều vật dụng bằng tre và mây, đặc biệt là những loại gùi với kiểu dáng đặc trưng tộc người. Ngoài ra, một số gia đình còn có nghề rèn, làm đồ trang sức bằng đồng, một số nơi có nghề dệt chiếu, làm gốm không dùng bàn xoay và nung lộ thiên. Ngày nay, việc canh tác cây công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, giúp nhiều gia đình Ê-đê thoát nghèo. Họ có nhiều sản phẩm hàng hóa nổi tiếng như cà phê, hồ tiêu, cao su...
Người Ê-đê còn bảo lưu chế độ mẫu hệ khá điển hình. Trong xã hội truyền thống, người Ê-đê cư trú thành các buôn. Mỗi buôn bao gồm một nhà cộng đồng - nơi tổ chức các hoạt động chung và các nhà dài. Mỗi đại gia đình mẫu hệ (bố mẹ và các gia đình của những người con gái, cháu gái) ở chung trong một ngôi nhà dài. Các nhà trong buôn đều quay đầu hồi với cửa chính hướng về phía bắc. Độ dài nhà của người giàu và thế lực lớn có khi lên tới 200m, với những điêu khắc trang trí trên cột nhà, xà nhà, cầu thang ván...; trong “phòng khách” có nhiều ghế độc mộc, phản độc mộc (kpan) và của cải quý giá khác như cồng chiêng, trống đại, ché, nồi đồng lớn. Hình thức đại gia đình mẫu hệ tồn tại phổ biến cho đến trước năm 1975, và đến nay được thay thế bởi các gia đình nhỏ hay gia đình hạt nhân. Những ngôi nhà dài cũng không còn tồn tại, thay vào đó là những ngôi nhà được xây theo cách của người Kinh hoặc nhà sàn nhỏ dành cho gia đình hạt nhân.
Văn hóa vật thể và phi vật thể của người Ê-đê đều phong phú và đặc sắc. Theo quan niệm của người Ê-đê, có rất nhiều thần linh thiện và ác, ở tầng trời và tầng đất, trong đó Aê Điê và Aê Đu được coi như những thần khai sáng ra đất và nước. Do vậy, trong một năm, người Ê-đê thực hiện nhiều lễ cúng ở cấp độ gia đình hoặc/và cộng đồng làng, chủ yếu để cầu lúa tốt, được mùa, làm ăn may mắn, khoẻ mạnh và bình yên, trong đó lớn nhất là những nghi lễ có hiến sinh trâu. Tuy nhiên, khi đạo Tin Lành xâm nhập, những người Ê-đê theo đạo không còn tin vào “vạn vật hữu linh”, không còn cúng Yàng như trước mà chỉ tin vào đức Chúa Trời.
Trong di sản văn hoá Ê-đê, không thể thiếu âm nhạc cồng chiêng, các loại nhạc cụ đa dạng được làm bằng tre nứa và vỏ bầu, cũng không thể không kể đến luật tục, các hình thức văn học dân gian truyền miệng, đặc biệt là các sử thi (Đam San, Đam Kteh Mlan, Khing Juh...).
Tại khu trưng bày thường xuyên của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, nhiều hiện vật của người Ê-đê như: y phục, gùi các loại, đồ dùng nhà bếp... được giới thiệu trong không gian “Nam Đảo miền núi” ở tầng 2 của toà nhà Trống đồng. Các thông tin về hiện vật và bài viết được thể hiện bằng ba ngôn ngữ: Việt, Pháp và Anh. Bộ phim tư liệu về lễ đặt tên cho trẻ nhỏ cung cấp những hình ảnh sống động về cuộc sống của đồng bào Ê-đê. Ngoài ra, một cặp cột cái của nhà dài với các điêu khắc đặc trưng được trưng bày ở tầng 1. Trong khu trưng bày ngoài trời của Bảo tàng, một ngôi nhà dài được đưa về từ thành phố Buôn Ma Thuột và được chính những người Ê-đê ở buôn Ky (thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) dựng lại vào năm 2000.
Người viết: Vũ Phương Nga
Ảnh: BTDTHVN