Người Rơ-măm làm rẫy, trồng nhiều lúa nếp, ngoài ra còn trồng lúa tẻ, ngô, sắn, thuốc lá..., sử dụng cách thức canh tác tương tự như các cư dân bản địa khác ở Tây Nguyên: phát, đốt, chọc lỗ, tra hạt... Từ năm 1986 đến nay, người Rơ-măm không chỉ canh tác nương rẫy mà còn làm ruộng nước, trồng cây ăn quả (chuối, mít), cây công nghiệp (cà phê, cao su) song năng suất chưa cao. Chăn nuôi (trâu, lợn, gà, vịt) chủ yếu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt và hoạt động cúng lễ. Một số gia đình làm thuê cho các lâm trường của Nhà nước song nguồn thu nhập này chưa đủ để đảm bảo sinh kế bền vững cho người dân.
Trước kia, đàn ông Rơ-măm thạo đan lát, đàn bà dệt vải. Y phục thường được làm từ vải mộc (không nhuộm), gồm khố của nam giới, váy quấn và áo không ống tay của phụ nữ; trời lạnh có thêm tấm choàng cũng đồng thời là chăn. Trang sức nữ chủ yếu là vòng tay, vòng cổ và hoa tai; người khá giả dùng hoa tai bằng ngà voi, đường kính có thể tới 4-5cm. Hiện nay, người Rơ-măm không còn duy trì tập quán “căng tai” và cà răng. Họ cũng đã thay thế trang phục truyền thống bằng trang phục của người Kinh hoặc của các dân tộc lân cận.
Theo truyền thống, làng của người Rơ-măm có nhà cộng đồng (rông) ở giữa, xung quanh nhà rông là những ngôi nhà sàn dài của các gia đình. Mỗi nhà dài có nhiều gia đình nhỏ, mỗi gia đình sở hữu một buồng riêng với bếp đặt trong đó. Gian giữa nhà là nơi tiếp khách và sinh hoạt chung, một hành lang chạy dọc sàn nhà, kết nối không gian của các gia đình với nhau và với gian chung. Hiện nay, do ảnh hưởng của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cấu trúc làng bản của người Rơ-măm đã thay đổi, các ngôi nhà được phân bố dọc hai bên đường chính; nhà rông và nhà sàn dài truyền thống gần như không còn, thay vào đó là nhà gạch, lợp mái tôn theo chương trình hỗ trợ của Nhà nước.
Xã hội của người Rơ-măm hiện ở giai đoạn quá độ từ chế độ mẫu hệ sang chế độ phụ hệ. Theo tập tục, sau lễ cưới, đôi vợ chồng thường ở với gia đình vợ trong khoảng 4-5 năm, sau đó chuyển sang gia đình chồng, hoặc cư trú luân chuyển đôi bên cho đến khi cha mẹ một bên qua đời mới ở ổn định một nơi. Luật tục được coi trọng, quan hệ cộng đồng được đề cao. “Già làng” có vai trò như vị thủ lĩnh, có uy tín đặc biệt đối với toàn thể dân làng. Đến nay, thành phần cư dân trong làng đa dạng, phức tạp hơn, ngoài người Rơ-măm còn có người Kinh, Gia-rai, Xơ-đăng.
Người Rơ-măm cho rằng trời, đất, sông, núi, con vật, chiêng, ché... đều có “hồn” (jàng). Mỗi người chết đi, hồn sẽ biến thành ma. Thông thường, sau lễ mai táng vài ba năm, gia đình tổ chức lễ bỏ mả. Thần lúa Jàng Sri/Hri rất quan trọng đối với chu kỳ canh tác lúa rẫy của người Rơ-măm. Họ thường tổ chức nhiều nghi lễ trong năm cầu mong mùa màng bội thu: lễ cúng sau khi đốt rẫy (chòi xíc), lễ cúng trỉa lúa (ét choi), lễ cúng xin tuốt lúa sớm (et xet may), lễ hội mở cửa kho lúa (Tết cơm mới). Khi làm nhà, lập làng, ốm đau, sinh con..., người Rơ-măm cũng đều tổ chức lễ cúng. Tùy nghi lễ, vật hiến sinh có thể là gà hay lợn, dê..., lớn nhất là trâu.
Tại trưng bày thường xuyên của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hiện vật của người Rơ-măm được giới thiệu trong không gian các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơ-me Trường Sơn - Tây Nguyên ở tầng 2 của tòa nhà Trống đồng. Tất cả bài viết và thông tin đều được thể hiện bằng ba ngôn ngữ (Việt, Pháp, Anh).
Người viết: Vũ Phương Nga