Một góc bản người Lào (Bản Na Sang 2, Điện Biên, 2003)
Dân tộc Lào thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái. Họ tự gọi mình là Thay, Thay Duồn, Thay Nhuồn và còn có các tên gọi khác như Phu Thay, Phu Lào, gồm có hai nhóm địa phương là Lào Bốc (Lào Cạn) và Lào Nọi (Lào Nhỏ). Người Lào có mặt ở Tây Bắc vào khoảng thế kỷ XIII - XIV, di cư từ nước Lào vào Việt Nam, sinh sống tập trung tại các tỉnh miền núi phía Tây Bắc. Theo kết quả điều tra dân số năm 2019, dân tộc Lào có 17.532 người.
Trong truyền thống cũng như hiện nay, người Lào chủ yếu làm ruộng nước kết hợp với nương rẫy. Kỹ thuật trồng lúa nước của người Lào đã đạt đến trình độ như các dân tộc phát triển khác như Thái, Tày, Nùng… Ngoài ra, họ còn khai thác các lâm thổ sản như củ mài, măng, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong và các loại rau, hoa quả dại.... Hiện nay, hình thức này không còn phổ biến như trước.
Ngoài nông nghiệp, một số nghề thủ công khá nổi tiếng và phát triển như nghề gốm bàn xoay ở Mường La (tỉnh Sơn La), nghề dệt ở huyện Điện Biên (tỉnh Điện Biên). Ngoài đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, sản phẩm thủ công còn trở thành hàng hóa phục vụ bà con trong và ngoài thôn/bản.
Hiện nay, người Lào mở các cửa hàng dịch vụ tạp hóa ngay tại thôn/bản với các nhu yếu phẩm chủ yếu gồm thực phẩm, quần áo, giày, dép, xà phòng… và các vật tư nông nghiệp. Những dịch vụ này vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho bà con, vừa phản ánh sự hội nhập của người Lào với nền kinh tế thị trường.
Bản của người Lào thường được bố trí ở những nơi đất bằng dưới chân núi hoặc dọc các con suối, thuận tiện cho sản xuất và đi lại. Cơ cấu tổ chức của thôn/bản hiện nay được vận hành theo cơ cấu tổ chức hành chính, đứng đầu là Trưởng bản, ngoài ra còn có các thành viên khác trong bộ máy quản lý như Phó Trưởng bản, phụ trách an ninh, các tổ chức chính trị - xã hội cấp thôn/bản (Chi hội Hội nông dân, Chi hội Hội phụ nữ, Chi đoàn Đoàn thanh niên, Chi hội Hội người cao tuổi…). Ngoài ra, còn có những già làng là những người lớn tuổi, có uy tín và vai trò nhất định trong cộng đồng.
Khi đến bản người Lào, có thể thấy những ngôi nhà sàn với mái hình mai rùa giống nhà của người Thái Đen. Không gian sinh hoạt trong nhà thường được chia làm hai phần chính: Phía ngoài là nơi ăn uống, bếp núc và sinh hoạt của toàn gia đình; phía trong là một dãy buồng riêng - nơi nghỉ ngơi của cha mẹ, con cái. Nhà của trưởng họ hay thầy cúng còn có thêm một buồng riêng để thờ cúng. Ngày nay, nhiều gia đình vẫn ở nhà sàn, chỉ có một số cặp vợ chồng trẻ chuyển sang ở nhà xây, lợp ngói.
Phụ nữ Lào thường mặc áo ngắn (che ngang ngực) và thân váy dài đến bắp chân. Váy được trang trí nhiều hoa văn ở thân váy và gấu váy. Các mô típ hoa văn chủ yếu là hình động vật như voi, dấu chân hổ, con cua... Ngoài váy và áo, phụ nữ Lào thường sử dụng thêm phụ kiện như: khăn piêu, khăn quàng, trâm bạc cài tóc… Bộ trang phục truyền thống của nam giới bằng vải sợi bông nhuộm chàm, được làm đơn giản hơn gồm: khăn đội đầu, áo may kiểu cổ đứng 3 phân, có hai túi phía dưới hai vạt áo; quần may kiểu lá tọa không có dây rút, khi mặc thì dùng dây lưng thắt bên ngoài. Hiện nay, người Lào vẫn còn lưu giữ bộ trang phục truyền thống, thường mặc nhiều vào những dịp lễ tết, sinh hoạt cộng đồng; riêng người lớn tuổi vẫn mặc trang phục truyền thống trong sinh hoạt hàng ngày.
Người Lào ăn gạo nếp là chính cùng với các loại thực phẩm được nuôi trồng trong vườn nhà và được hái lượm trong rừng, sông suối. Họ thích ăn các loại rau quả có vị đắng, chua, chát. Vào những ngày lễ hội hay bữa cơm đãi khách, người Lào thường làm món gỏi cá hoặc gỏi thịt trâu, thịt bò, thịt vịt (còn gọi là “lạp”) giống người Thái. Hiện nay, tại các bản người Lào, lương thực, thực phẩm đa dạng hơn bởi sự phát triển hơn của các dịch vụ buôn bán trong thôn/bản.
Người Lào rất thích ca múa, đặc biệt là các làn điệu dân ca truyền thống như khắp lăm, kạp, ăn nẳng xử... Phụ nữ Lào không chỉ hát hay mà còn rất giỏi các điệu dân vũ. Điệu múa lăm vông của người Lào thường uyển chuyển, nhịp nhàng theo nhịp trống, động tác khá tự do, mang đậm màu sắc dân tộc. Văn hóa của người Lào chịu ảnh hưởng rõ rệt từ văn hóa của người Thái, người Kinh và cả người Lào ở bên kia biên giới.
Trước đây, con gái Lào khoảng 13-15 tuổi đã lấy chồng; có trường hợp vợ hơn tuổi chồng 3-5 tuổi, thậm chí 10 tuổi để tăng lao động cho gia đình. Ngày nay, việc kết hôn được thực hiện theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình (nam 20 tuổi, nữ 18 tuổi).
Người Lào theo Phật lịch và ăn tết vào tháng 4 âm lịch hàng năm (Bun pi pay). Hằng tháng, vào ngày rằm và ba mươi, người Lào có tục dâng lễ (hoa quả) lên tháp theo nghi thức Phật giáo. Họ cũng có nhiều nghi thức tín ngưỡng khác liên quan đến nông nghiệp như lễ cầu mưa, mừng cơm mới.
Nhìn chung, đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người Lào có nhiều thay đổi và phát triển. Đây là kết quả của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa, không chỉ diễn ra ở người Lào mà còn ở nhiều dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam.
Tại trưng bày thường xuyên của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, hiện vật của người Lào được giới thiệu trong không gian các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái Ka-đai ở tầng 2 của tòa nhà Trống đồng. Tất cả bài viết và thông tin đều được thể hiện bằng ba ngôn ngữ (Việt, Pháp, Anh).
Người viết: Võ Thị Mai Phương
Ảnh: Võ Thị Mai Phương, Lò Thị Ổn, Lường Thị Thương, Lò Thị Biên, BTDTHVN